Chúa Nhật 2 Phục Sinh – Lòng Chúa Thương Xót – Năm C


CN 2 PS NĂM C

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

24-4-2022

———–

CHẦU THÁNH THỂ

Giáo xứ Hoằng Phước

 GIÁO HUẤN SỐ 22

NGƯỜI TRẺ VỚI NHỮNG CỘI RỄ

Tương quan của các con với các bậc cao tuổi (tt)

Thánh Kinh nói với chúng ta: “Hãy lắng nghe cha ngươi, người sinh ra ngươi, và đừng khinh thường mẹ ngươi khi người già đi” (Cn 23,22). Lệnh truyền tôn kính cha mẹ  “là giới răn đầu tiên có kèm theo lời hứa” (Ep 6,2; x. Xh 20,12; Đnl 5,16; Lv 19,3, và lời hứa đó là: “để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,3). Điều này không có nghĩa  rằng phải đồng ý với bất cứ gì người lớn nói hay phải chấp nhận mọi hành động của họ. Một người trẻ luôn cần có tinh thần phê bình. Thánh Ba-si-li-ô Cả khích lệ người trẻ quí trọng các tác giả Hy Lạp cổ, nhưng chỉ chấp nhận những gì tốt đẹp mà họ dạy. Quả thật quan trọng việc cởi mở để đón nhận một sự khôn ngoan gần gũi với thân phận con người và không nên bị quên lãng trước những cái mới lạ của xã hội tiêu thụ và của thị trường “ (Tông huấn Đức Ki-tô hằng sống, số 189 & 190)

————–

CN 2 PS NĂM C

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT

(Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20,19-31)

Cha Đỗ Quang Chính kể lòng rộng rãi của hai người Thanh Chiêm (Phước Kiều) là ông bà An-rê và Ngọc Liên công chúa.

Ông bà An-rê

Muốn trót lọt nhà thừa sai 47 tuổi này (Đắc Lộ) phải gây được cảm tình với viên “bang trưởng” Nhật. Bằng cách nào ? Rhodes chỉ cần tặng ông ta món quà không to lớn lắm, nhưng đã biến ông “bang trưởng” từ một người ác cảm với các cha trước đây, thành kẻ bao che, nâng đỡ. Ông đưa Rhodes đi làm quen với các Nhật kiều, gặp gỡ người Việt, lại còn đích thân đi với cha ra tận vương phủ ở Huế. Nên nhớ vào năm đó, chúa Nguyễn Phúc Lan ở Kim Long (gần chùa Thiên Mụ) là kinh đô Đàng Trong.

Trước khi đi yết kiến nhà vương, Rhodes để cha Pedro Alberto (mới đến) ở lại Hội An. Ngoài một số lễ vật quí mang từ Áo-môn. Rhodes dốc hết tiền của mua sắm thêm nhiều đồ quí khác để tiến dâng chúa Thượng. Cũng may một giáo hữu  giầu có và rộng lượng là ông bà An-rê đã bỏ tiền bù lại cho vị thừa sai (Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt, 1615-1773, trang 80-81).

Ngọc Liên công chúa

Ngọc Liên công chúa: Một công chúa của Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên,  (con trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng), cũng là nhân vật không thể không nhắc tới, đó là Ngọc Liên công chúa. Bà là trưởng nữ của Sãi Vương, kết hôn với tướng Nguyễn Phước Vinh (quan trấn Phú Yên), có lẽ trước năm 1629. Ngọc Liên sinh năm nào không rõ; chỉ biết bà là gái trưởng. Ngọc Liên có ba em gái : Ngọc Vạn kết hôn với vua Chey Chetta II (Cam Bốt); Ngọc Hoa (Khoa ?) là vợ của Nhật kiều Satano, cũng gọi là Taro, hiệu Hiển Hùng; Ngọc Đỉnh thành hôn với tướng Nguyễn Cửu Kiều (quan phủ Quảng Bình). Ngọc Liên và Ngọc Đỉnh theo ‘Đạo Hoa Lang’.

Ngọc Liên đã được ảnh hưởng rất nhiều của bà Minh Đức Vương thái phi, có lẽ được rửa tội năm 1636 do cha Buzomi, mang thánh hiệu Maria Mađalêna. Chồng bà làm trấn thủ Trấn Biên dinh (Phú Yên) từ năm 1629-1643, tuy không theo đạo, nhưng lại “ước mong mọi người dưới quyền cai trị của ông theo “Đạo Hoa lang”. Ngọc Liên rất nhiệt tình với đạo, có một nhà nguyện riêng trong dinh của bà và anh chị em bổn đạo có thể tới cầu nguyện. Năm 1641, cha Rhodes ở trong dinh của tướng Vinh 4 ngày để giảng đạo và làm phép Thánh tẩy cho 90 người, trong số này có cậu Anrê-Phú Yên. Từ năm 1643, Ngọc Liên theo chồng về cư ngụ tại Thanh Chiêm bà vẫn một lòng đạo, hăng say giới thiệu Tin Mùng, kể cả sau khi tướng Vinh qua đời năm 1645. Ngọc Liên công chúa lập nhà thương xót lo cho những người nghèo khổ, neo đơn, cung cấp lương thực cho 12 thầy giảng Đàng Trong. Đầu năm 1645, bà cũng có dịp gặp gỡ và giúp đỡ 4 nữ tu Clara cùng hai cha dòng Phanxicô (tất cả là người Tây Ban Nha), đi tầu từ Áo Môn về Manila, bị gió bão trôi giạt vào Quảng Nam. Khi cha Saccano đến Đàng Trong năm 1646, bà cũng lén lút từ Thanh Chiêm lên Cửa Hàn gặp cha vào ban đêm. Năm 1663 chính quyền ra lệnh khám xét nhà Ngọc Liên, tịch thu của cải, vì bà theo Đạo Hoa Lang, lại còn thiêu hủy nhà nguyện của bà. Hai năm sau Hiền Vương ra lệnh cấm đạo ngặt hơn: ngày 29-1-1665 bà bị giam trong một nhà ngục không mái che, để cho chết đói, chết khát. Sau năm ngày, bà không chịu nổi, nên đã chối đạo. Tuy nhiên đầu tháng 2-1665, khi gặp cha Louis Chevreuil, MEP (hội Thừa sai Paris), bà đã xưng tội, nhưng bị cha phạt vạ không được rước lễ ngay. Không rõ Ngọc Liên qua đời năm nào. Năm 1674 bà còn sống và vẫn dạy giáo lý (Đỗ Quang Chính, Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt 1615-1773, trang73-74).

Ông Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên còn kể thêm vài cử chỉ đẹp của bà : “Mỗi ngày bà Ngọc Liên gởi một món quà để tặng, đến thăm thường xuyên và còn cho con gái của bà đến ở với các nữ tu (Tây Ban Nha)” (Hồng Nhuệ, Tường Trình Về Đàng Trong 1645, trang 120).

Ông bà An-rê và bà Ngọc Liên là hình ảnh lòng Chúa thương xót trong thánh lễ hôm nay.

Chúa nhật hôm nay là lễ “LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT”. Lễ này được Thánh  giáo hoàng Gioan-Phaolô II thiết lập vào ngày 30-4-2000, theo ước muốn của Chúa bày tỏ cho nữ tu Faus-ti-na.

Nữ tu Faustina sinh năm 1905 tại Ba-lan. Chị là người con thứ ba trong 10 người con của một gia đình nông dân nghèo khổ. 15 tuổi chị xin đi tu, nhưng cha mẹ không bằng lòng. Mãi khi 20 tuổi chị mới được phép.

Con nhà nghèo, học hành thì không, nhà dòng sai chị làm những việc rất hèn mọn như nấu bếp, làm vườn, coi nhà, canh cổng. Nhưng chị làm với tất cả vì lòng  mến Chúa và cứu các linh hồn.

Ngày 22-2-1931, sau 6 năm vào dòng, Chúa Giê-su hiện ra với chị. Chị thấy toàn thân Chúa sáng ngời, và từ Trái Tim Chúa chiếu ra hai luồng sáng phá tan bóng tối sự chết và tội lỗi. Tay trái Chúa chỉ vào trái tim như mời gọi mọi người tin cậy vào lòng Chúa thương xót.

Bài Tin Mừng (Ga 20,19-31): Có một giai thọai về thánh Tô-ma như sau : sau khi Chúa Giê-su về trời, các tông đồ bắt thăm để đi truyền rao Tin Mừng. Thánh Tô-ma bắt phải thăm đi Ấn độ. Ngài từ chối, lấy lý do không đủ sức khỏe. Ngài còn nại lý do bất đồng ngôn ngữ. Ngài nói : “Tôi là người Do thái, làm sao tôi đến giảng cho người Ấn độ được”.

Đêm về Chúa Giê-su hiện ra và nói với thánh Tô-ma : “Tô-ma, con đừng sợ. Con hãy đi giảng lời Thầy cho dân Ấn độ. Ơn Thầy đủ cho con”. Nhưng thánh Tô-ma vẫn cứng cổ thưa : “Thầy muốn con đi bất cứ đâu, con cũng sẵn sàng, nhưng đi Ấn độ tuyệt đối con không đi”.

Có một lái buôn từ Ấn độ đến Giê-ru-sa-lem. Ông tên là Ab-ba-nes. Ông được vua Ấn độ sai đi tìm một người thợ mộc khéo tay. Chúa Giê-su gặp ông ở chợ và hỏi : “Có phải ông muốn mua một người thợ mộc không?”. Ông Ab-ba-nes thưa : “Phải, tôi muốn mua một người thợ mộc”. Chúa Giê-su bảo ông: “Tôi có một người nô lệ làm thợ mộc rất khéo tay. Nếu ông muốn, tôi bán cho ông”. Vừa nói Chúa Giê-su vừa chỉ tay về thánh Tô-ma đang đứng đàng xa. Sau khi thỏa thuận giá cả, Chúa viết giấy bán như sau : “Tôi là Giê-su, con ông thợ mộc Giu-se. Tôi bán người nô lệ của tôi tên là Tô-ma cho ông Ab-ba-nes, một thương gia của vua Ấn độ”. Hai bên ký kết và thanh toán tiền bạc xong, Chúa Giê-su đem thánh Tô-ma giao cho ông Ab-ba-nes.

Sáng hôm sau thức dậy, thánh Tô-ma quì gối cầu nguyện : “Lạy Chúa Giê-su, con xin vâng theo ý Chúa”.

Thánh Tô-ma được đưa về Ấn độ và được đem đến trình diện vua Ấn. Vua sai ông đi xây cung điện cho vua. Vua hoàn toàn tín nhiệm ông. Vua trao cho ông nhiều tiền để mua vật liệu và thuê thợ. Thay vì dùng tiền để xây cung điện, thánh Tôma giúp đỡ người nghèo.

Mãi chưa thấy có cung điện, vua hỏi thánh Tô-ma: “Nhà ngươi có xây cung điện cho ta không?”. Thánh Tô-ma thưa : “Dạ, có”. Vua hỏi: “Khi nào ta đến xem cung điện của ta?”. Thanh Tô-ma đáp: “Bây giờ hoàng thượng chưa thể xem được. Khi qua đời, hoàng tượng sẽ thấy cung điện của hoàng thượng”.

Thoạt nghe, vua giận dữ, truyền đem thánh Tô-ma đi giết. Nhưng khi được thánh Tô-ma giảng Nước Trời, vua vui sướng theo đạo, để được vào cung điện Nước Trời.

Theo tương truyền, thánh Tô-ma đã đi rao giảng Tin Mừng cho nước Ấn Độ. Các học trò của ngài sang Trung Hoa giảng đạo, sang cả Việt Nam. Thái thú Sĩ Nhiếp, con cái của Thánh nhân, đã sang cai trị Việt Nam từ năm 187 đến 226. Cơ quan của ông ở Thanh Hóa. Ông đã treo Thánh Giá trong cơ quan.

Bài đọc 1 (Cv 5,12-16) : Sách Công Vụ Tông Đồ cùng tác giả Luca với sách Tin Mừng thứ ba. Sách Tin Mừng Luca dạt dào lòng Chúa thương thì sách Công Vụ cũng chan chứa lòng Chúa thương. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi ở Giê-ru-sa-lem sống theo lòng thương của Chúa, nên thành cộng đoàn hiệp thông. Nhóm CGKPV viết : “Sách Công vụ có 3 đoạn 2,42-47; 4,32-36; 5,12-16 tóm lược mọi sinh hoạt của anh em tín hữu thời sơ khai. Cộng đoàn tín hữu thể hiện niềm tin vào Đức Ki-tô phục sinh khi sống thành một cộng đoàn phụng vụ, một cộng đoàn bác ái huynh đệ đầy tình hiệp thông, một cộng đoàn lý tưởng sống theo Tin Mừng. Đó là Hội thánh của Chúa Ki-tô. Hội thánh là một hiệp thông, hiệp thông trong phẩm trật, hiệp thông trong chia sẻ, hiệp thông trong của cải và hiệp thông trong Chúa Ki-tô” (Kinh Thánh 2011, trang 2415).

 Bài đọc 2 (Kh 1,9-13.17-19) : Sách Kinh Thánh của nhóm CGKPV viết về bđ2  như sau : “Nhờ đồng cảnh ngộ với các tín hữu đang gặp thử thách, ông.mới có khả năng thuyết phục anh em tín hữu. Điều ông viết không phải tự ý mình. Nhưng theo lệnh truyền của Đức Giê-su phục sinh hiện ra trong thị kiến. Ông đã nhìn thấy Con Người y như Đa-ni-en 7 và 10 mô tả. Với kỹ thuật xử dụng từ ngữ khải huyền, ông cho độc giả thấy Đức Ki-tô vừa là ngôn sứ, vừa là tư tế, vừa là quân vướng. Chính Người sẽ là thẩm phán. Ông xác tín Đức Ki-tô đã toàn thắng tội lỗi và sự chết, nên kêu gọi anh em tín hữu đặt niềm hy vọng nơi Người. Hãy kiên nhẫn chịu đựng gian khổ. Đức Ki-tô đã trải qua đau khổ mới đạt vinh quang. Có thập giá mới có ơn cứu độ. Cơn bách hại hiện tại là con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu” (Kinh Thánh 2011, trang 2761).

 Lời nguyện

Trong kinh “Xin Lòng Chúa Thương Xót” có câu : “Lạy Cha từ bi, chỉ mình Cha mới phán xét con. Cha không bao giờ từ chối khi con thống hối ăn năn, chạy tới lòng thương xót của Cha, nơi mà chưa một linh hồn nào bị từ chối, mặc dù họ là một linh hồn vô cùng tội lỗi. Lời Chúa Giê-su, Con Cha, đã bảo đảm với con rằng : ‘Thà rằng trời đất này biến ra không, nhưng lòng thương xót của Ta luôn ấp ủ mọi linh hồn tín thác”.

Linh mục Giuse Nguyễn Trung Thành